Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
Trước khi đi vào phân tích cụ thể nội dung bài thơ, chúng ta cần hiểu rõ về hoàn cảnh ra đời và tác giả để thấy được chiều sâu cảm xúc mà tác phẩm mang lại.
Bằng Việt sinh năm 1941, là nhà thơ thuộc thế hệ kháng chiến chống Mỹ, từng học tập tại Liên Xô. Ông nổi tiếng với phong cách thơ nhẹ nhàng, sâu lắng và giàu chất suy tư.
Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi nhà thơ còn là du học sinh tại Moskva. Xa quê hương, xa gia đình, nỗi nhớ về người bà và những năm tháng tuổi thơ hiện lên rõ nét, trở thành cảm hứng cho bài thơ.
Ngay từ nhan đề, “Bếp lửa” đã khơi gợi một hình ảnh quen thuộc và đậm chất Việt. Không đơn thuần là một vật dụng trong gia đình, bếp lửa trong bài thơ mang ý nghĩa biểu tượng, gắn với kỷ niệm, tình yêu thương, và sức mạnh tinh thần.
Bên cạnh nội dung giàu tính nhân văn, “Bếp lửa” còn mang giá trị nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm nên thành công của tác phẩm.
“Bếp lửa” không chỉ là vật dụng quen thuộc, mà còn được nhà thơ xây dựng như một biểu tượng của tình bà cháu, ký ức tuổi thơ, sự kiên cường vượt khó. Sức gợi của hình ảnh này tạo nên chiều sâu cảm xúc cho bài thơ.
Bài thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị, đậm chất dân gian và gần gũi với đời sống. Nhịp thơ nhẹ nhàng, trầm lắng phù hợp với tâm trạng hồi tưởng. Nhờ vậy, người đọc dễ đồng cảm và rung động với những tâm sự chân thành.
Bài thơ đi theo mạch cảm xúc: từ hồi tưởng → kể lại kỷ niệm → tri ân → suy ngẫm. Cấu trúc này giúp bài thơ có sự chuyển biến tự nhiên, mang lại sự sâu sắc về tư tưởng.
Không chỉ là một tác phẩm văn học, “Bếp lửa” còn là bài học về đạo lý và tình cảm gia đình mà mỗi thế hệ cần ghi nhớ.
Thông qua hình ảnh người bà, bài thơ gợi nhắc mỗi người về sự tri ân, lòng biết ơn đối với những người thân yêu đã hy sinh thầm lặng cho chúng ta. Đó là tình cảm cần được gìn giữ và tiếp nối qua các thế hệ.
Tuổi thơ và ký ức không chỉ là kỷ niệm, mà còn là nền tảng hình thành nhân cách, lối sống. Qua “Bếp lửa”, ta thấy rằng những điều giản dị nhất lại là thứ nuôi dưỡng tâm hồn con người bền bỉ nhất.
“Bếp lửa” không chỉ là một bài thơ cảm động mà còn là lời nhắc nhở về lòng biết ơn và giá trị gia đình. Tác phẩm xứng đáng nằm trong tuyển chọn Thơ theo chủ đề về tình cảm gia đình, nơi những hình ảnh bình dị trở thành biểu tượng bền lâu trong lòng người đọc.